Nguồn gốc lễ Mẫu thân (Mother’s Day)
April 29, 2015

Câu chuyện về một vị hiền mẫu sắp kể dưới đây không phải là một huyền thoại.  Bà tên là Ann Reeves Jarvis sinh năm 1833 và mất năm 1905, thọ 72 tuổi. Bà Jarvis lúc 12 tuổi theo cha định cư tại West Virginia. Cha bà là Linh Mục Josiah W. Reeves.

Hoa Cẩm chướng màu hồng dành cho người mẹ nếu mẹ còn sống; Cẩm chướng màu trắng dành cho người con nếu mẹ đã qua đời.

Hoa Cẩm chướng màu hồng dành cho người mẹ nếu mẹ còn sống; Cẩm chướng màu trắng dành cho người con nếu mẹ đã qua đời.

Năm 17 tuổi, bà lập gia đình với ông Granville E. Jarvis và họ có với nhau 11 người con, nhưng chỉ còn sống được 4 cháu. Có lẽ nỗi đau khổ quá lớn lao vì mất mát 7 người con khiến bà quyết tâm lăn xả vào công tác từ thiện xã hội nhằm giúp nâng cao điều kiện vệ sinh lúc đó còn quá thấp kém đã khiến cho số tử vong ở trẻ thơ tăng rất cao.

Tới 26 tuổi, bà bắt đầu kêu gọi tất cả các bà mẹ ở Webster, Philippi, Pruntytown, Fetterman, và Grafton hội tại các nhà thờ địa phương để tổ chức thành những câu lạc bộ lấy tên là Mothers Day Work Clubs (Câu lạc bộ Nhật Hành của các bà mẹ). Bà kêu gọi anh của bà là Bác Sĩ James Edmund Reeves và B.S. Amos Payne ở Pruntytown làm cố vấn và thuyết trình viên cho các câu lạc bộ của bà. Câu lạc bộ hướng dẫn các bà mẹ cách chăm sóc những gia đình mắc bệnh lao phổi; cung cấp thuốc men cho người nghèo và sữa cho trẻ em đã được khám bệnh.

Năm 1961, lo ngại cuộc nội chiến Mỹ châu (1861- 1865) bùng nổ sẽ làm tê liệt các hoạt động của câu lạc bộ Nhật Hành, bà Jarvis kêu gọi một cuộc họp khẩn cấp để các hội viên cùng thỏa thuận rằng dù chính kiến là nam hay bắc, họ vẫn duy trì tình hữu nghị (friendship) và thiện chí (good will) với nhau trong và sau cuộc chiến.

Khi bệnh sốt thương hàn (typhoid fever) và bệnh đậu mùa (measles) lan tràn trong quân lính, bà Jarvis và các câu lạc bộ của bà được kêu gọi giúp đỡ, bà trả lời: “Quý vị sẽ có sự giúp đỡ… Các hội viên chúng tôi sẽ không có sự đối xử sai trái nào. Chúng tôi bao gồm cả sắc phục xanh (bắc) và sắc phục xám (nam).” Do đó, các câu lạc bộ Nhật Hành đã nhận được những tưởng lục cao quý nhất của các hai phe nam và bắc.

Sau cuộc nội chiến Hoa Kỳ (1861 – 1865) để làm nhẹ những nỗi va chạm hậu chiến. Một lần nữa, bà Jarvis lại được chính quyền kêu gọi giúp đỡ.  Bà tập hợp những hội viên tại tòa án Pruntytown và đặt kế hoạch tổ chức ngày “Mothers Friendship Day” tức ngày hữu nghị của các bà mẹ tại Pruntytown có mời tất cả binh sĩ quân phục xám hay xanh và gia đình tới dự.

Một khối lượng người rất lớn đã tới tham dự. Khi chương trình bắt đầu, bà Jarvis xuất hiện trong y phục xám với một bà khác trong y phục xanh. Hai em bé gái trong tuổi mười cùng với ban nhạc trổi lên kêu gọi mọi người tập họp. Bà Jarvis trình bày mục đích của ngày hữu nghị các bà mẹ và yêu cầu ban nhạc hướng dẫn tất cả cùng ca bài “Way Down South in Dixies” (bài dân ca nhạc Jaz rất được ưa chuộng thời đó). Bà mặc y phục xanh (tượng trưng miền bắc) kế đó yêu cầu ban nhạc hướng dẫn bà và khán giả hát bản quốc ca “The Star-Spangled Banner”.  Tiếp đó là tiếng hoan hô và tiếng cười. Hai em bé gái cầm tay của bà Jarvis và của bà y phục xanh yêu cầu họ bắt tay và ôm hôn nhau. Rồi hai bà kêu gọi mọi người cùng làm như vậy trong khi ban nhạc chơi bản “Should Auld Acquaintance Be Forgot” – xin hãy quên đi chuyện ngày xửa ngày xưa – được lược dịch như sau:

Ngày xưa quên đi hãy nên, ngày xưa, hãy cùng đồng lòng quên hết

Hãy nên quên đi ngày xưa để tâm trí mình hoàn toàn thảnh thơi

Có nên quên đi ngày xưa?  Ngày xưa có nên đồng lòng quên hết?

Hãy nên quên đi ngày xưa hàm bao nỗi buồn ngày xửa, ngày xưa.

Bài này đã được biết tới tại nước ta từ trước 1945 với bài ca có tên là “Au Revoir” tức là “Tạm Biệt” thường được các em hướng đạo hát. Lời của bài “tạm biệt” ngày trước không còn nhớ trọn vẹn.  Bây giờ xin đặt lời mới như sau:

Giờ đây anh em chúng ta cùng nhau giã từ, lòng càng lưu luyến

Nắm tay ta hãy cùng nhau hòa ca hát bài tạm biệt từ đây

Trước khi chia tay rời xa, cầm tay chúc nhau mọi điều như ý

Chúc nhau gia quyến bình an và mong có ngày lại được gặp nhau.

Vào lúc bài “xin hãy quên đi chuyện ngày xửa ngày xưa”. Kết thúc, hầu như mọi người đều khóc và bắt tay nhau.

Ngoài công việc với câu lạc bộ Nhật Hành, bà Jarvis còn hoạt động tích cực cho nhà thờ. Trong hơn một phần tư thế kỷ, bà dạy các trẻ em học và đã nhìn thấy chúng trưởng thành và lại tiếp tục đem các con của họ đến lớp học của bà. Bà không những là một giáo chức ngoại hạng mà còn là diễn giả tài ba. Nhiều lần bà giảng thuyết trong các nhà thờ có thính giả rất đông về các đề tài như “Giá trị của văn học là nguồn gốc của văn hóa và tinh hoa” (The Value of Literature as a Source of Culture and Refinement) , “Sự quan trọng của những trung tâm giải trí có giám sát cho học trò nam và nữ” (Importance of Supervised Recreational Centres for Boys and Girls), và “Những bà mẹ vĩ đại của kinh thánh” (The Great Mothers of The Bible).

Bà Jarvis qua đời vào ngày 9 Tháng 5, 1905, thọ 72 tuổi, và được chôn cất tại West Laurel Hill Cemetery ở Philadelphia. Vào ngày bà an nghỉ, chuông của Andrews Methodist Episcopal Church ở Grafton đổ 72 hồi để tưởng niệm bà.

Năm 1907, vào ngày giỗ mẹ lần thứ nhì, cô con gái của bà Jarvis là Anna Jarvis thuyết phục nhà thờ của mẹ cô cử hành ngày của Mẹ vào chủ nhật thứ nhì của tháng năm và cô khởi sự vận động cho ngày của mẹ được nhìn nhận trên toàn quốc. Sáu năm sau, năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson  tuyên bố chủ nhật thứ nhì trong tháng năm là ngày của Mẹ trên toàn nước Mỹ.

Ngày nay, trên thế giới nhiều nước nhìn nhận ngày của Mẹ như Anh, Pháp, Thụy Ðiển, Ðan Mạch, Ấn Ðộ, Trung Hoa, và Mexico, ngày lễ kéo dài tới hai ngày.  Hoa biểu tượng cho ngày của Mẹ là hoa cẩm chướng (carnation): cẩm chướng màu hồng dành cho người mẹ nếu mẹ còn sống; cẩm chướng màu trắng dành cho người con nếu mẹ đã qua đời. Nhiều người Việt hải ngoại ngày nay cũng ăn mừng ngày của Mẹ. Con cái mua quà tặng Mẹ và đưa mẹ đi ăn tiệm.

 

 

                                                                                                                                                                   Sưu tầm